Diễn biến Chiến_dịch_tấn_công_hữu_ngạn_Dniepr

Giai đoạn thứ nhất

Giai đoạn thứ nhất của chiến dịch kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 tới ngày 29 tháng 2 năm 1944, bao gồm các chiến dịch nhỏ sau:

  • Chiến dịch tấn công Zhitomir–Berdichev (24 tháng 12 năm 1943 - 14 tháng 1 năm 1944)[65]
  • Chiến dịch tấn công Kirovograd (5 tháng 1 năm 1944 - 16 tháng 1 năm 1944)
  • Chiến dịch hợp vây Korsun–Shevchenkovsky (24 tháng 1 năm 1944 - 17 tháng 2 năm 1944)[65]
  • Chiến dịch tấn công Rovno–Lutsk (27 tháng 1 năm 1944 - 11 tháng 2 năm 1944)
  • Chiến dịch tấn công Nikopol–Krivoi Rog (30 tháng 1 năm 1944 - 29 tháng 2 năm 1944)

Chiến dịch tấn công Zhitomir–Berdichev

Ngày 24 tháng 12 năm 1943, khi Chiến dịch Znamenka-Krivoy Rog của các Phương diện quân Ukraina 2 và 3 ở phía Nam vừa tạm dừng thì Đại tướng N. F. Vatutin phát động cuộc tấn công của Phương diện quân Ukraina 1 vào Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức). Các đòn tấn công chủ yếu xuất phát từ phía Tây và Tây Nam Kiev[1][66]. Ở giữa mặt trận, Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân 18 có Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 mở đường tấn công dọc theo đường sắt nhằm hướng Zhitomir - Berdichev.[67] Tập đoàn quân 38 có Tập đoàn quân xe tăng 1 đi trước cũng phát động tấn công dọc theo con đường sắt Fastov đi Kazatin, mở rộng cánh trái đánh chiếm Skvira và Pogrevichensky (Pogrebysche). Bên cánh phải, các tập đoàn quân 27 và 40 cũng đồng loạt tấn công theo hướng Belaya Cherkov và Volodarka. Trên cánh trái của mặt trận, Tập đoàn quân 60 tiến quân qua Novograd-Volynsky hướng đòn tấn công về Slavuta. Tập đoàn quân 13 cũng mở các mũi tấn công hướng về Rovno và Sarny.[68]

Ngày 27 tháng 12 năm 1943, Erich von Manstein khẩn khoản xin phép Hitler cho được rút quân nhưng mệnh lệnh của Hitler vẫn là giữ nguyên vị trí chiếm đóng.[1] Ngày 28 tháng 12, Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) mở các cuộc phản kích và đầu mối đường sắt Korostyshev và Radomyshl nhằm kéo Tập đoàn quân 60 và Tập đoàn quân cận vệ 1 lùi lại nhưng đòn phản kích quá yếu ớt, không ngăn cản được xe tăng Liên Xô tiến như vũ bão về phía trước. Ngày 29 tháng 12, Korostyshev được giải phóng và ngày 31 tháng 12, xe tăng Liên Xô đã lần thứ hai trong vòng hơn 1 tháng, lăn bánh trên đường phố Zhitomir. Sau đó, do tổ chức kém nên Tập đoàn quân xe tăng 1 phải rất vất vả mới chiếm được Berdichev ngày 3 tháng 1 năm 1943[69].

Quân đội Liên Xô đánh chiếm Berdichev, tháng 1-1944

Sau khi đánh chiếm Berdichev và Kazatin, Tập đoàn quân xe tăng 1 bứt khỏi Tập đoàn quân 38, tiến công dọc theo đường sắt Kazatin - Vinitsa, đánh chiếm Vinitsa và đột phá đến Zhmerinka. Tập đoàn quân 38 bị rớt lại sau. Phát hiện xe tăng Liên Xô tấn công đơn độc không có bộ binh đi kèm, ngày 5 tháng 1 năm 1944, tướng Hans-Valentin Hube tung Quân đoàn xe tăng 46 còn mới nguyên và Quân đoàn bộ binh 29 phản kích vào Zmerinka, buộc Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) phải lùi về Lipovets với tổn thất nặng[69]. Ở phía Bắc, tướng Erhard Raus sử dụng Quân đoàn xe tăng 48 phản đột kích vào Starokonstantinov, kéo Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) về Lyubar, không cho họ tiến đến gần Proskurov (Khmelnitskyi), nơi đóng Sở chỉ huy cánh Bắc của Cụm tập đoàn quân Nam.[10]

Mũi phản kích của Tập đoàn quân xe tăng 1 Đức từ Uman và Vinitsa đã bị chặn đứng ngày 11 tháng 1. Trong ba ngày tiếp theo, Tập đoàn quân xe tăng 1 và các tập đoàn quân 38, 40 (Liên Xô) tiến hành phản đột kích nhưng vẫn bị quân Đức đẩy lùi thêm 30 km và trụ lại trên tuyến Lipovets - Ilintsy - Zhashkov - Tarascha. Ngày 14 tháng 1, chiến dịch kết thúc. Theo các tài liệu Xô Viết do Phòng thông tin Liên Xô (Sovinform) tổng hợp thì thương vong của quân Đức trong chiến dịch này tính từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến 13 tháng 1 năm 1944 là 10 vạn người chết và bị thương, 7 nghìn bị bắt, 2.204 xe tăng bị phá hủy, 316 chiếc khác bị Quân đội Liên Xô bắt sống[70]. Theo thiếu tướng Ivan Ignachyevich Yakubovsky, chỉ huy trưởng Lữ đoàn xe tăng cận vệ 91 thì chỉ tính đến hết ngày 29 tháng 12 năm 1943, đã có 40.000 sĩ quan và binh lính Đức thiệt mạng và bị thương; khoảng 3.000 lính Đức bị bắt làm tù binh; 671 xe tăng, 300 xe bọc thép và pháo tự hành, 1.380 pháo và súng cối cùng 5.500 xe quân sự của Đức bị phá hủy[67]

Chiến dịch tấn công Kirovograd

Ở phía Nam, chiến sự chỉ tạm lắng trong 10 ngày khi các bên đều phải tạm dừng để bổ sung quân số, phương tiện bị thiệt hại trong Chiến dịch Znamenka-Krivoy Rog. Ngày 5 tháng 1 năm 1944, Phương diện quân Ukraina 2 của Đại tướng I. S. Konev lại nhanh chóng tiếp tục cuộc tấn công vào Kirovograd. Một lần nữa Manstein bay đến Tổng hành dinh của Hitler tại Đông Phổ và xin được lui quân, và một lần nữa Hitler lại yêu cầu "giữ nguyên vị trí".[1]

Ở phía Bắc, Tập đoàn quân 52 vừa giữ vững bàn đạp Cherkassy, vừa phối hợp với Tập đoàn quân cận vệ 4 mở mũi đột kích vào Kamenka. Đến ngày 11 tháng 1, Tập đoàn quân cận vệ 4 đã cắt đứt tuyến đường sắt nối Kirovograd với Smela và cô lập đầu mối đường sắt quan trọng này từ ba phía. Mũi tấn công của Tập đoàn quân 53 cũng phát triển nhanh chóng. Chỉ sau 2 ngày, Tập đoàn quân 53 đã đánh chiếm Kanizh, cô lập Kirovograd từ phía Bắc.[71]. Trên hướng tấn công chính, Tập đoàn quân cận vệ 5 và Tập đoàn quân cận vệ 7 tạo thành hai gọng kìm khép chặt Kirovograd từ phía Bắc và phía Nam[72]. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 yểm hộ Tập đoàn quân cận vệ 7 đã tạo thành một "bức tường thép" ở phía Nam Kirovograd, chặn đứng đòn phản kích của 2 quân đoàn bộ binh Đức vào Novgorodsk (Novgorodka), khép chặt sườn trái của Phương diện quân Ukraina 2 với Phương diện quân Ukraina 3.[73]

Ngày 7 tháng 1, trong một cố gắng cuối cùng để cứu vãn tình hình tại Kirovograd, tướng Otto Wöhler tung Sư đoàn xe tăng 5 SS phản kích vào cánh trái của Tập đoàn quân cận vệ 7 tại Rybchino và Pokrovskoye trong khi chủ lực của Tập đoàn quân này đã dồn hết về phía trước. Tướng P. A. Rotmistrov điều trung đoàn pháo chống tăng 689 của đại tá J. S. Gushev từ đội dự bị của mình ra cản phá, ngăn chặn đòn đột kích này. Trung bình, cứ 3 xe tăng Đức mới đổi được một khẩu pháo của Trung đoàn 689. Không chịu nổi tổn thất, Sư đoàn xe tăng 5 SS phải chấm dứt phản kích[74]. Ngày 8 tháng 1 năm 1944, Quân đội Liên Xô giải phóng thành phố Kirovograd.[1]

Chiến dịch tấn công Rovno–Lutsk

Sau khi dừng lại ba ngày trên tuyến Sarny - Kostopol - Gosha (Goshcha) - Slavuta, ngày 27 tháng 1, cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 1 tiếp tục tiến công, tạo thế chia cắt Cụm tập đoàn quân Nam với Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức), đồng thời, mở rộng thêm bàn đạp để tiến xuống phía Nam, đánh vào sau lưng cánh Bắc của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đang tập trung tại Tây Nam Kiev và vẫn chưa từ bỏ ý định chiếm lại thành phố[67].

Do địa hình phía Bắc mặt trận là vùng đầm lầy Polesia dọc sông Pripyat, rất khó triển khai xe tăng và cơ giới nặng nên Tập đoàn quân 13 và Tập đoàn quân 60 (hai tập đoàn quân chủ yếu của chiến dịch) được tăng cường Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và Quân đoàn kỵ binh cận vệ 6. Tập đoàn quân 18 cũng được điều đến sau lưng Tập đoàn quân 13 làm lực lượng dự bị chiến dịch để phát huy kết quả tấn công về phía Đông. Ngày 27 tháng 1, Tập đoàn quân 13 nổ súng tấn công trước.[75]

Ngày 27 tháng 1, các Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và 6 đã bí mật, bất ngờ đột kích mà không có pháo binh bắn chuẩn bị. Sau khi vượt sông Goryn trong hành tiến, ngày 29 tháng 1, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 đã đột kích sâu đến 50 km, đánh chiếm Kivertsy, cắt đứt đường sắt Kovel - Rovno. Ngày 1 tháng 2, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 6 cũng đột kích qua Klevan và hội quân với các sư đoàn cánh phải của Tập đoàn quân 60 ở Dubno. Ngày 2 tháng 2, các thành phố Rovno và Lustk cùng được giải phóng.[76]

Ở phía Nam, Tập đoàn quân 60 tấn công chậm hơn một ngày khi Quân đoàn bộ binh 13 (Đức) đã kéo bớt sư đoàn kỵ binh 18 và sư đoàn bộ binh 340 (Đức) lên chặn đường kỵ binh Liên Xô đang đột phá qua Lutsk đi Lvov. Ngày 11 tháng 2, Tập đoàn quân 60 đánh chiếm Shepetovka, Bologorye, Yampol, Shumskoye (Shumsk). Sau 16 ngày tấn công, cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 1 đã tạo được một "lỗ thủng" rất lớn sâu 30 dặm và rộng đến 110 dặm, tạo ra nguy cơ chia cắt hai Cụm tập đoàn quân lớn nhất của quân đội Đức Quốc xã trên mặt trận phía Đông.[66]

Chiến dịch hợp vây Korsun–Shevchenkovsky

Bản đồ Chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky (do Lục quân Hoa Kỳ vẽ)

Các bản đồ đoạt được của quân Đức ngày 14 tháng một trong trận đột kích chớp nhoáng của Quân đoàn cơ giới cận vệ 79 vào Vinitsa cho thấy cụm quân Đức do tướng Wilhelm Stemmermann chỉ huy đóng tại mỏm đất nhô Korsun-Shevchenkovsky với đỉnh chạm vào sông Dniepr có 9 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn cơ giới. Cụm quân này chêm vào giữa các phương diện quân Ukraina 1 và 2, chứa đựng nguy cơ đột kích vào cả hai sườn của hai Phương diện quân này và cản trở cuộc tấn công của quân đội Liên Xô trên hữu ngạn Ukraina.[77] Ngày 11 tháng 1 năm 1943, kế hoạch tấn công của G. K. Zhukov, N. F. Vatutin và I. S. Konev được báo cáo lên Đại bản doanh và ngay hôm sau, ngày 12 tháng 1, Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô I. V. Stalin đã chuẩn y kế hoạch đó. Để hợp vây cụm quân Korsun-Shevchenkovsky của quân Đức, Quân đội Liên Xô huy động vào trận đánh 27 sư đoàn bộ binh, 4 quân đoàn xe tăng, 1 quân đoàn cơ giới; tổng cộng có 370 xe tăng cùng một số lượng lớn pháo binh, không quân và các phương tiện tăng cường[78]. Ưu thế của Quân đội Liên Xô đạt được trên các hướng tấn công chính lên đến 1,7:1 về bộ binh, 2,4:1 về pháo và súng cối, 2,6:1 về xe tăng và pháo tự hành.[79]

Mũi tấn công chính của chiến dịch nằm ở phía Nam của khu vực Korsun-Shevchenkovsky mở màn ngày 24 tháng 1 năm 1944. Sau một trận oanh kích dữ dội trên quy mô lớn bằng cả pháo binh và không quân[1], các Tập đoàn quân cận vệ 4 và Tập đoàn quân 53 của Phương diện quân Ukraina 2 tấn công vào phía Nam của chỗ lồi Korsun. Ngày hôm sau, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 có 218 xe tăng và 18 pháo tự hành được đưa vào cửa đột phá tại tại Kanizh để đẩy nhanh tốc độ đột phá về Shpola[77]. Với ưu thế về binh lực trên một địa đoạn hẹp, Quân đội Liên Xô nhanh chóng chọc thủng trận tuyến và dễ dàng đẩy lùi mọi đợt phản kích của phát xít Đức.[1]

Các đơn vị xe tăng Liên Xô chuẩn bị tấn công

Ngày 26 tháng 1 năm 1944, Phương diện quân Ukraina 1 tung Tập đoàn quân xe tăng 6 có hơn 150 xe tăng đột phá từ Đông Nam Stavishe (Stavyshche) về hướng Zvenigorodka. Ngày 28 tháng 1, Tập đoàn quân này đã đón gặp Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 tại thị trấn Zvenigorodka, khép lại vòng vây. Ngày 30 tháng 1, các tập đoàn quân 27, 52, 53 và cận vệ 4 (Liên Xô) tấn công theo sau xe tăng đã thiết lập được vòng vây tuyến ngoài từ Zhashkov qua Talnoye, Malyi Viska đến phía Nam Kanizh.[80] Bên trong vòng vây là các đơn vị thuộc Sư đoàn xe tăng 23, Sư đoàn SS "Wiking", các sư đoàn bộ binh của Quân đoàn xe tăng 42 và Quân đoàn bộ binh 29 (Đức) tại khu vực Korsun-Shevchenkovsky - Boguslav - Smela, trong một "cái chảo" được mệnh danh là "Tiểu Stalingrad" hay còn gọi là "Stalingrad trên bờ sông Dniepr".[81]. Tuy quân đội Liên Xô nhanh chóng bao vây 11 sư đoàn Đức tại đây nhưng việc thanh toán cụm quân này gặp nhiều khó khăn do bị cản trở nhiều bởi thời tiết tan băng sớm đầu năm 1944 khiến mặt đất trở nên hết sức lầy lội; cản trở việc triển khai và cơ động các lực lượng xe tăng, cơ giới, pháo binh cũng như các phương tiện nặng.[78]

Ngày 4 tháng 2, thống chế Erich von Manstein tung ra một cuộc phản công lớn vào khu vực Korsun-Shevchenko để giải vây cho cụm quân của tướng Wilhelm Stemmermann. Đội quân phản công gồm lực lượng hỗn hợp của Tập đoàn quân xe tăng 1 và một phần Tập đoàn quân xe tăng 4 đặt dưới quyền chỉ huy của thượng tướng xe tăng Hans Hube[78]. Theo kế hoạch, Quân đoàn xe tăng 47 sẽ tấn công từ phía Đông Nam còn Quân đoàn xe tăng 3 sẽ tấn công từ phía Tây. Mũi phản công chủ yếu do Quân đoàn xe tăng 3 đảm nhận sẽ đánh từ khu vực Uman-Khristinovka vào khu vực Antonovka-Rizino là nơi vòng vây của Quân đội Lien Xô bị đứt đoạn giữa Tập đoàn quân 27 và Tập đoàn quân 52.[77] Nhưng chỉ đến ngày 6 tháng 2, cuộc phản công này bị chặn đứng tại làng Kameny Brody (???) do cuộc phản đột kích của Quân đoàn bộ binh 47 (Tập đoàn quân 27), Quân đoàn bộ binh 73 (Tập đoàn quân 52) dưới sự yểm hộ của Lữ đoàn xe tăng 73 và các trung đoàn pháo tự hành 378, 379. Ngày 7 tháng 2, Sư đoàn xe tăng 1 (thuộc Quân đoàn xe tăng 24) được tướng Erhard Raus điều động cho cuộc phản công cố gắng đột phá qua Lisyanka đến Korsun nhưng đã bị các Quân đoàn bộ binh 78 chặn đứng tại Nông trường Tháng Mười.[80]. Cuộc phản công của Quân đội Đức Quốc xã có nguy cơ phá sản trong bùn lầy của mùa xuân sớm tại Korsun-Shevchenkovsky[1].

Ngày 8 tháng 2, Nguyên soái G. K. Zhukov, Đại tướng N. F. Vatutin và Đại tướng I. S. Konev cùng ký và gửi một tối hậu thư yêu cầu các đơn vị Đức Quốc xã bị vây phải đầu hàng.[77] Song, cũng giống như ở Stalingrad, quân Đức từ chối.[78]

Các tài sản quân sự của quân đội Đức Quốc xã bỏ lại tại "cái chảo" Korsun-Shevchenkovsky.

Trong những cố gắng cuối cùng để giải cứu cụm quân Korsun-Shevchenkovsky, ngày 9 tháng 2, Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) đã tiến tới Lisyanka, tiếp cận với số quân bị vây[1]. Ngay sau đó, trong một trận bão tuyết, các sư đoàn bộ binh 57, 72, 88 và sư đoàn SS "Wiking" (Đức) trong "cái chảo" Korshun đã tìm cách chạy thoát thân nhưng đã bị chặn lại trên sông Gniloy Tikich[78]. Trong khi vũ khi, đạn dược, lương thực, quân nhu vơi cạn dần vì không thể được tiếp tế quy mô như trong trận Stalingrad, cụm quân Đức bị vây phải liên tục chống đỡ các đòn tấn công dồn ép của quân đội Liên Xô. Trước tình hình đó, tướng Wilhelm Stemmermann, chỉ huy cụm quân Đức bị vây, quyết định mở một đợt đánh phá vây cuối cùng vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng 2 năm 1944[1]. Cuộc phá vây một lần nữa thất bại, phần lớn số quân Đức tham gia phá vây bị tiêu diệt, trong đó có cả tướng Stemmermann. Chỉ có một số ít ỏi chạy thoát khỏi vòng vây. Trong số 73 nghìn quân bị "giam" tại "cái chảo" Korshun có 18 nghìn bị bắt, số còn lại phần lớn bị tiêu diệt.[78] Chỉ tính riêng địa đoạn mặt trận do Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 (Liên Xô) chiếm lĩnh đã có 16.870 sĩ quan và binh sĩ Đức chết trận; 249 xe tăng, 310 pháo, 109 súng cối và 1.474 xe quân sự bị phá hủy; 22 máy bay Đức bị hỏa lực phòng không bắn rơi. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 còn thu giữ từ quân Đức bỏ lại 24 xe tăng, 35 pháo tự hành, 178 pháo và súng cối, 1.553 xe quân sự, 27 kho đạn dược, vũ khí, quân nhu và quân dụng, bắt 2.335 tù binh Đức.[82]

Kết quả của Chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky đã tạo ra một lỗ hổng lớn trên tuyến phòng ngự của quân Đức. Từ Zhmerinka đến Pervomaisk, Tập đoàn quân xe tăng 1, cánh Nam của Tập đoàn quân xe tăng 4 và cánh Bắc của Tập đoàn quân 8 (Đức) không chỉ cạn sạch lực lượng dự bị mà còn không đủ quân để phòng thủ trên một tuyến dài đến gần 500 km. Ngày 20 tháng 2, Thống chế Erich von Manstein ra lệnh thiết lập tuyến phòng thủ trên sông Nam Bug.[8] Trong khi đó, Quân đội Liên Xô không tạm dừng chiến dịch mà tích cực chuẩn bị để tấn công chỉ hai ngày sau đó. Trong quá trình Chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky, nhận thấy cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 1 đã tiến xa về phía Tây, trong khi cánh Nam của nó vẫn ở lại trên khu vực quanh khu vực từ Tây Nam Kiev đến bờ sông Dniepr, ngày 12 tháng 2 năm 1944, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô ra lệnh bố trí lại lực lượng. Tập đoàn quân 27 và Tập đoàn quân xe tăng 6 (được nâng cấp từ Quân đoàn xe tăng 19 của tướng A. G. Kravchenko) sẽ được chuyển giao từ Phương diện quân Ukraina 1 sang Phương diện quân Ukraina 2. Tuyến phân giới giữa hai Phương diện quân được đẩy lên phía Bắc, từ Volodarka qua Ilintsy, Kopaygorod, Khotin đến thượng nguồn sông Seret, trên biên giới Liên Xô-Romania[83].

Chiến dịch tấn công Nikopol–Krivoi Rog

Di tích bức tường gạch ghi lại khẩu hiệu chào mừng Hồng quân Liên Xô giải phóng thành phố của Krivoi Rog từ tay quân đội Đức Quốc xã, 22 tháng 2 năm 1944

Trong khi 11 sư đoàn Đức đang khốn đốn trong vòng vây tại "Tiểu Stalingrad" bên bờ sông Dniepr thì ở cánh Nam của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức), nguy cơ một "cái chảo" như vậy đối với Tập đoàn quân 6 (Đức) và cánh Nam của Tập đoàn quân 8 (Đức) đã xuất hiện. Ngày 30 tháng 1 năm 1944, các Phương diện quân Ukraina 3 và 4 (Liên Xô) mở Chiến dịch tấn công Nikopol-Krivoy Rog. Chiến dịch này có quy mô còn lớn không kém Chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky. Quân đội Liên Xô huy động 705.000 quân, Quân đội Đức Quốc xã có 540.000 quân, không kể quân chư hầu Romania.[84]

Chiến dịch tấn công Nikopol–Krivoi Rog mở màn khi Tập đoàn quân cận vệ 8 và Tập đoàn quân 46 (Phương diện quân Ukraina 3) giáng đòn đột kích chủ yếu vào điểm giữa Nikopol và Krivoy Rog. Các cuộc tấn công diễn ra trong điều kiện thời tiết rất xấu. Mây thấp và mưa phùn khiến không quân của cả hai bên đều án binh bất động tại các sân bay. Pháo binh hoạt động không mấy hiệu quả vì tầm nhìn bị hạn chế đáng kể. Do đó, tốc độ tấn công trong mấy ngày đầu rất chậm[21]. Ngay cả khi Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 được đưa vào đột phá cũng chìm ngập trong bùn lầy. Các pháo thủ phải kéo pháo bằng ngựa, bằng tay.[85] Ngày 31 tháng 1, Tập đoàn quân cận vệ 3 mở mũi đột kích vào trực diện vào Nikopol sau khi vượt sông Dniepr trong hành tiến. Tập đoàn quân xung kích 5 và Tập đoàn quân 28 đột phá về phía Tây, đánh chiếm Blakitnoye. Ngày 3 tháng 2, Tập đoàn quân 28 đánh chiếm Kirovsk (???) và Novo-Ivanovka (???). Đường rút lui của Tập đoàn quân 6 (Đức) về Nikolayev đã bị Quân đội Liên Xô kiểm soát.[86] Ngày 5 tháng 2, Tập đoàn quân cận vệ 8 đánh chiếm Mikhailovka, Kamyanka và đầu mối đường sắt Apostolovo, cắt đứt liên lạc trên bộ giữa Nikopol và Krivoy Rog. Ngày 6 tháng 2, Tập đoàn quân 37 đột kích qua phía Bắc Krivoy Rog đến tuyến sông Ingulets. Ngày 8 tháng 2, con đường bộ để trốn thoát cuối cùng của quân Đức tại làng Bolsaya Lepatikha đã bị Tập đoàn quân 6 (Liên Xô) cắt đứt. 3 sư đoàn bộ binh Đức lọt vào vòng vây quanh hai khu vực Blakitnoye và Shirokoye [87]. Cùng ngày, Tập đoàn quân cận vệ 3 giải phóng Nikopol.

Ngày 12 tháng 2, tướng Maximilian Fretter-Pico huy động Quân đoàn bộ binh 44 còn nằm ngoài vòng vây và 3 sư đoàn Romania tổ chức phản kích vào nhà ga Tseykovka (???) và thị trấn Shirokoye để giải thoát cho cụm quân Đức bị vây ở Krivoy Rog. Đại tướng R. Ya. Malinovsky hạ lệnh cho thượng tướng V. I. Chuikov để lại khu vực Krivoy Rog cho Tập đoàn quân 46 giải quyết, cấp tốc điều Quân đoàn bộ binh 29, Lữ đoàn xe tăng 11, Lữ đoàn cơ giới cận vệ 10 và trung đoàn pháo tự hành 53 ra chặn đòn phản kích của quân Đức tại Shirokoye, chặn đứng các cuộc tấn công vượt sông Ingulets của 6 sư đoàn bộ binh Đức và Romania.[88]

Ngày 29 tháng 2, Chiến dịch Nikopol-Krivoy Rog kết thúc. Quân đội Liên Xô xóa bỏ chỗ lồi xung quanh Krivoi Rog, Nikopol và thu hẹp đáng kể chính diện mặt trận.[21] 12 sư đoàn Đức bị đánh tan.[89] Quân đội Đức Quốc xã bị mất hơn 40.000 người chết và bị thương, 4.600 người bị bắt làm tù binh.[88]

Giai đoạn thứ hai

Sau giai đoạn thứ nhất với 5 chiến dịch kế tiếp và gối nhau, so sánh lực lượng trên chiến trường Ukraina từ tháng 3 năm 1944 vẫn nghiêng về phía quân đội Liên Xô. Do nhận được quân số bổ sung cùng hơn 600 xe tăng, nhiều pháo và máy bay từ các nhà máy Ural, Volga, Chelyabinsk... ưu thế về xe tăng của Quân đội Liên Xô được lập lại. Tính đến ngày 1 tháng 3 năm 1944, tại Ukraina, Quân đội Liên Xô có 1.930.000 người, 29.700 pháo và súng cối, 2.442 xe tăng và pháo tự hành, 1.578 máy bay. Quân đội Đức Quốc xã cũng nhận dược tăng viện từ Tây Âu, Balkan và nước Đức, cùng thời điểm ngày 1 tháng 3, Quân đội Đức tại Ukraina có 1.400.000 người, 14.500 pháo và súng cối, khoảng 2.000 xe tăng và pháo tự hành, 1.530 máy bay.[23] Tỷ lệ ưu thế 1,4:1 về người, 2:1 về pháo, 1,2:1 về xe tăng (về máy bay, ưu thế coi như không đáng kể) của Quân đội Liên Xô không phải là một ưu thế lớn trong tấn công. Tuy nhiên, họ đã tạo được ưu thế áp đảo trên các hướng tấn công chính bằng cách để các hướng phụ bị yếu và chỉ cần giữ thế phòng thủ tích cực ở các hướng này. Việc giữ bí mật các cuộc chuyển quân và tập trung binh lực vào các hướng đột kích quan trọng, có tác dụng chia cắt mạnh đã tạo cho Quân đội Liên Xô những thành công mới trên mặt trận Ukraina năm 1944.[76]

Giai đoạn hai của Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr bao gồm các chiến dịch bộ phận như sau:

  • Chiến dịch tấn công Proskurov–Chernovtsy (4 tháng 3 năm 1944 - 17 tháng 4 năm 1944)[65]
  • Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani (5 tháng 3 năm 1944 - 17 tháng 4 năm 1944)
  • Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye-Snigirevka (6 tháng 3 năm 1944 - 18 tháng 3 năm 1944)
  • Chiến dịch tấn công Kovel (15 tháng 3 năm 1944 - 5 tháng 4 năm 1944)
  • Chiến dịch tấn công Odessa (26 tháng 3 năm 1944 - 14 tháng 4 năm 1944)

Chiến dịch tấn công Proskurov–Chernovtsy

Phương diện quân Ukraina 1 tấn công

Tại phía Bắc Ukraina, sau khi Quân đội Liên Xô giảm cường độ công kích vào cuối tháng 2 năm 1944, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Đức Quốc xã OKH tin rằng Hồng quân sẽ ít có khả năng tổ chức thêm bất kỳ cuộc tấn công nào nữa trong tương lai gần[81]. Tuy nhiên, những phán đoán đó hoàn toàn không có cơ sở. Trên thực tế, Quân đội Liên Xô đang bí mật tổ chức một đợt tấn công quy mô còn lớn hơn nữa với việc huy động toàn bộ 6 tập đoàn quân xe tăng của họ đang có mặt tại Ukraina tham gia các chiến dịch[3]. Trên mặt trận phía Tây Kiev và vùng Polesia, Quân đội Liên Xô có khoảng 800.000 người, 11.900 pháo và súng cối, 1.400 xe tăng, 477 máy bay chiến đấu. Quân đội Đức Quốc xã có khoảng 500.000 người, 5.530 pháo và súng cối, 1.100 xe tăng và 480 máy bay chiến đấu.[23]

Từ cuối tháng 2 năm 1944, lợi dụng bàn đạp chiến lược được mở ra sau khi đánh lui Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) tại khu vực Rovno-Lutsk. Nguyên soái G. K. Zukov đã điều động từ khu vực Đông Bắc Vinitsa đến đây Tập đoàn quân xe tăng 1 của trung tướng M. E. Katukov. Tập đoàn quân xe tăng 4 do trung tướng D. D. Lelyushenko chỉ huy (nhậm chức ngày 10 tháng 3 năm 1944)[88] cũng được đưa từ lực lượng dự bị chiến lược đến khu vực Yampol. Cùng với Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 của tướng P. S. Rybalko đã có mặt tại Belogorye sau Chiến dịch tấn công Rovno–Lutsk, ba tập đoàn quân xe tăng Liên Xô sẽ tạo thành một mũi đột kích cực mạnh chia cắt Tập đoàn quân xe tăng 1 khỏi Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) và cụm quân Đức tại Nam Ba Lan. Phối hợp với đòn đột kích từ phía Nam của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5, Tập đoàn quân xe tăng 6 (lúc này đã giải quyết xong "cái chảo" Korsun-Shevchenkovsky) và Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng I. S. Bogdanov tràn qua Uman tấn công sang phía Đông.[90]. Quân đội Liên Xô dự kiến sẽ tạo nên hai gọng kìm bằng xe tăng kẹp chặt Tập đoàn quân xe tăng 1, một phần Tập đoàn quân 8 và cánh Nam của Tập đoàn quân xe tăng 4 vào giữa; hinh thành một "cái chảo" ở khu vực Vinitsa, Proskurov, Kamenets Podolsky còn lớn hơn hai "cái chảo" Korsun-Shevchenkovsky và Nikopol-Krivoy Rog cộng lại[91]. Kế hoạch nghi binh của Hồng quân đã thành công và phát xít Đức hoàn toàn bị bất ngờ khi vào ngày 4 tháng 3 năm 1944 Phương diện quân Ukraina 1 chuyển sang tấn công sau một đợt pháo kích dữ dội, mở màn chiến dịch Proskurov–Chernovtsy[1].

Sơ đồ vòng vây mà Quân đội Liên Xô tạo ra ở khu vực Kamenets Podolsky - Dunayevtsy trong chiến dịch Proskurov - Chernovtsy

Ngay sát trước chiến dịch, Quân đội Liên Xô chịu một tổn thất nặng nề về sinh lực cao cấp. Ngày 28 tháng 2 năm 1944, trên đường đi thị sát mặt trận của Tập đoàn quân 60 cùng với Nikita Khrushev, khi đi qua khu vực Goshchansky Ostrog, đại tướng N.F.Vatutin, tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 bị các lực lượng li khai Ukraina của Bandera (UPA) bắn trọng thương. Ông được đưa về Kiev điều trị. Ngày 5 tháng 4 năm 1944, N. F. Vatutin qua đời tại Quân y viện Kiev. Nguyên soái G.K.Zhukov được chỉ định làm tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 và vẫn là Phó Tổng tư lệnh tối cao.[92]

Khởi đầu chiến dịch, Tập đoàn quân 60 và Tập đoàn quân cận vệ 1 (Liên Xô) triển khai đột phá tuyến phòng ngự Shumskoys - Yampol - Lyubar của Quân đội Đức Quốc xã. Sáng ngày 5 tháng 3 khi khu vực cửa mở tại Yampol và Iziaslav đã rộng ra đến 5 km và sâu 2 km, Tập đoàn quân xe tăng 1 và Tập đoàn quân xe tăng 3 lập tức được đưa vào để khoét sâu lỗ đột phá. Đến ngày 7 tháng 3, hai tập đoàn quân xe tăng này đã vượt lên trước hơn 40 km, cắt đứt tuyến đường sắt Proskurov - Tarnopol ở Volochisk và Ostrobsk. Theo sau họ là Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân 60[93]. Cảm thấy mối đe dọa từ phía sau lưng, tướng Walter Model lập tức tung ra 9 sư đoàn xe tăng và 6 sư đoàn bộ binh phản kích vào Ostrov, Chernyi (???), Zhmerinka nhưng vẫn không thể ngăn cản được đòn đột kích của xe tăng Liên Xô. Sở chỉ huy Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina buộc phải rời về Tarnopol. Ngày 12 tháng 3, để tăng tốc độ và mở rộng chính diện tấn công, Tập đoàn quân xe tăng 1 từ thê đội 2 được điều động vượt lên trước Tập đoàn quân cận vệ 1 và tiến nhanh theo hướng Chernovtsy. Tận dụng đòn đột phá của Tập đoàn quân xe tăng 1, Tập đoàn quân 60 bẻ hướng về phía Tây, tấn công Tarnopol.[94] Tướng Model lại một lần nữa phải rời Sở chỉ huy của mình về Lvov.

Ở giữa mặt trận, ngày 16 tháng 3, Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) đột phá qua Starokonstantinov về Proskurov. Tập đoàn quân 38 cũng tấn công qua Khmelnik, đánh chiếm Vinitsa ngày 20 tháng 3, vượt sông Nam Bug, cắt đứt tuyến đường sắt Proskurov - Odessa tại Zhmerinka. Tướng Hans-Valentin Hube điều 2 sư đoàn xe tăng của Quân đoàn xe tăng 3 và Quân đoàn bộ binh dự bị 62 phản kích vào Starokonstantinov nhưng chỉ giữ được 3 ngày. Ngày 23 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 101 của Tập đoàn quân 18 đã có mặt ở cửa ngõ Proskurov. Ở cánh Bắc, ngày 1 tháng 3, các Tập đoàn quân 47, 69 và 70 của Phương diện quân Byelorussia 2 mở chiến dịch Kovel. Ngày 3 tháng 3, tập đoàn quân 13 cũng phát động tấn công về hướng Sokal. Các cuộc tấn công này đã giam chân chủ lực Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) tại khu vực này, khiến cho họ không thể ứng cứu kịp thời cho Tập đoàn quân xe tăng 1 đang bị nửa hợp vây tại phía Bắc Kamenets - Podolsky.[95]

Ở phía Nam, ngày 5 tháng 3, Phương diện quân Ukraina 2 cũng phát động chiến dịch Uman–Botoşani. Cánh Bắc của chiến dịch gồm các tập đoàn quân xe tăng 2, 6 và cận vệ 5, các tập đoàn quân binh chủng hợp thành 27, 40 và cận vệ 4 tấn công song song trên chính diện hơn 150 km, tràn qua Uman, Khristinovka, Gaysin, Ternovka (???) dọc theo con đường sắt Uman - Vapniarka, đánh vào sau lưng các cánh quân xe tăng Đức đang phản kích vào sườn trái các Tập đoàn quân 18 và 38 (Liên Xô). Tướng Hans-Valentin Hube định lập phòng tuyến mới trên sông Nam Bug nhưng gần như ngay lập tức phải từ bỏ ý định đó vì ngày 21 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 6 (Liên Xô) đã có mặt ở Vapniarka, còn Tập đoàn quân xe tăng 2 (Liên Xô) đã tiến ra tả ngạn sông Dniestr.[96]

Ngày 24 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) đánh chiếm thị trấn Chertkov. Còn Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 của tập đoàn quân này phát triển qua thượng nguồn sông Dniestr, lần lượt đánh chiếm Tolstoye, Borshev và Zaleshika (???). Ngày 28 tháng 3, Lữ đoàn xe tăng 64 đánh chiếm nhà ga-ngã ba đường sắt Mosa (???), thu giữ 5 đoàn tàu hỏa Đức đang bốc dỡ xe tăng và đạn dược. Ngày 28 tháng 3, Lữ đoàn cơ giới 20 (Liên Xô) đột nhập sân bay Chernovtsy, bắt giữ hàng chục máy bay Đức chưa kịp cất cánh. Ngày 29 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 11 đã làm chủ thành phố biên giới Chernovtsy.[97]

Ở phía Đông Tập đoàn quân xe tăng 1, Tập đoàn quân xe tăng 4 cũng tiến quân qua Gusyatin, Balin, Orinin và có mặt ở Khotin ngày 31 tháng 3. Tại đây, Lữ đoàn xe tăng 44 của họ đã gặp Tập đoàn quân 40 trên bờ sông Nam Bug. Ở bên trong, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 đã giao chiến trực diện với chủ lực Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) trước cửa ngõ Kamenets Podolsky trên khu vực Dunayvtsy - Lyantskorun (???) - Monovaro. Bên trong vòng vây là 21 sư đoàn Đức thuộc Tập đoàn quân xe tăng 1 và một số sư đoàn thuộc Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 8, trong đó có 10 sư đoàn xe tăng và cơ giới. Tuy nhiên, khoảng cách giữa vòng vây bên trong và vòng vây bên ngoài của Quân đội Liên Xô khá mỏng, nơi dày nhất chỉ 50 km, nơi hẹp nhất ở Chertkov - Buchach không quá 25 km.[91]

Bộ Tổng tư lệnh tối cao Đức không có ý định bỏ mặc Tập đoàn quân xe tăng 1. Do Tập đoàn quân xe tăng 4 đã chuyển một phần lực lượng thiết giáp đến Tập đoàn quân xe tăng một trong chiến dịch giải thoát không thành cho Cụm quân Đức tại Korsun-Shevchenkovsky trước đó nên nếu để mất tập đoàn quân đột kích rất mạnh này, tuyến phòng ngự trên biên giới Ba Lan, Tiệp Khắc và Hungary của quân đội Đức Quốc xã sẽ không còn một tập đoàn quân nào có khả năng ngăn chặn các Tập đoàn quân xe tăng Liên Xô tiến ra biên giới nước Đức. Ngày 9 tháng 4, các quân đoàn xe tăng 48 và 57 được điều đến khu vực Drogobych. Quân đoàn xe tăng 2 SS được điều từ Pháp ngược trở lại mặt trận phía Đông, được trang bị xe tăng mới ở Đức trước khi đổ quân tại Lvov. Tập đoàn quân Hungary 1 có 4 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn cơ giới cũng được tập kết tại Stanislav (Stanislavka). Tất cả đều nhằm giải vây cho Tập đoàn quân xe tăng một trong cái túi Kamenets-Podolsky.[10]. Đối với tướng Hans-Valentin Hube, tình hình trở nên cấp bách vì dự trữ của quân Đức với quân số hơn 200.000 người trong vòng vây chỉ đủ dùng cho 2 tuần. Không quân Đức cũng không thể sử dụng được sân bay Kamenets-Podolsky để tiếp tế vì nó đã nằm trong tầm bắn của pháo binh Liên Xô.[98]

Quân đội Liên Xô sau một tháng tấn công liên tục cũng bị kiệt sức. Ngày 1 tháng 4, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 chỉ còn lại hơn 80 xe tăng đã bị rút khỏi chiến trường về lực lượng dự bị để củng cố lại binh lực[90]. Gánh nặng chiến dịch đặt lên vai Tập đoàn quân xe tăng 1 và Tập đoàn quân xe tăng 4 với non nửa số xe tăng còn lại[93]. Trong khi đó, các tập đoàn quân xe tăng 4, 6 và cận vệ 5 vẫn tiếp tục lao đến biên giới Romania với ý đồ khóa chặt tuyến Zaleschiki (???) - Chernovtsy - Kolomya để cắt đường rút lui của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) qua ngả này. Ngay cả Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đã hoàn toàn sai lầm khi phán đoán hướng rút quân của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Trong khi họ có các tin tức tình báo nói rằng tập đoàn quân này sẽ phá vây về hướng Tây Nam qua ngả Romania thì trên thực tế, tướng Hans-Valentin Hube lại chọn hướng Tây, qua Buchach và Podgaitsy, nơi có các lực lượng xe tăng mạnh mới được tăng cường của quân đội Đức đóng giữ.[99]

Ngày 9 tháng 4, Sư đoàn xe tăng 10, sư đoàn xe tăng 5 SS "Khonstaufen" và sư đoàn SS "Leibstandarte" cùng các sư đoàn bộ binh 100 và 361 thuộc Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) mở cuộc tấn công từ Kamenets Podolsky vào Balin và phát triển đến Chertkov.[1] Chủ lực Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) đang sửa soạn cuộc tấn công cuối cùng vào Kamenets Podolsky đã phải vội vã quay ra yểm hộ cho Tập đoàn quân cận vệ 1 nhưng không kịp. Ngày 10 tháng 4, Tập đoàn quân cận vệ 1 bị đánh bật khỏi Chertkov về phía Bắc. Quân đoàn kỵ binh cận vệ 18 của nó cũng phải bỏ dở cuộc đột kích vào Marympol (???) và bị đẩy lùi về Zeleshika (???). Ở phía Bắc, Tập đoàn quân 60 khi triển khai tấn công Podgaitsy cũng bị phản đột kích vào sườn phải và buộc phải rút lui khỏi Tarnopol. Theo sau Quân đoàn xe tăng 3 (Đức), lực lượng còn sống sót của các quân đoàn xe tăng 24 và 46 và Quân đoàn bộ binh 59 (Đức) cũng đột phá về phía Tây và chỉ mang theo xe tải, xe con, súng cối và vũ khí nhẹ, bỏ lại tất cả xe tăng, xe bọc thép, pháo, xe kéo và các trang bị nặng khác[98]. Thay vì bao vây quân Đức, các Tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 (Liên Xô) phải chuyển sang chiến thuật truy kích. Những đơn vị Đức rớt lại sau đều bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh. Quân đội Liên Xô thu được rất nhiều chiến lợi phẩm mà quân Đức bỏ lại trong khu vực Kamenets - Podolsky.

Vào ngày 30 tháng 3, lực lượng của Hube đã thành công khi chạy khỏi vòng vây, nguyên nhân là do tình báo Liên Xô không nhận thấy sự hiện diện của Quân đoàn xe tăng 2 SS[3] và tướng Hube đã đột kích phá vây sang phía Tây thay vì phía Nam như các tướng lĩnh Liên Xô dự kiến[100]. Đến ngày 10 tháng 4 quân của Hube đã hội quân với Tập đoàn quân xe tăng 4.[100] Bất chấp thành công nhỏ này, Hitler đã chỉ trích nặng nề các tướng lĩnh dưới quyền về sự thành công nói chung về chiến lược của Quân đội Xô Viết. Ngay sau đó, ông ta cách chức Erich von Mainstein cùng với Paul Ludwig Ewald von Kleist, tư lệnh của Cụm Tập đoàn quân Nam và Cụm Tập đoàn quân A và cử các tướng Walter ModelFerdinand Schörner thay thế. Hitler ra lệnh chia Cụm Tập đoàn quân Nam thành hai cụm: Cụm Tập đoàn quân Bắc UkrainaCụm Tập đoàn quân Nam Ukraina, trong đó các sư đoàn xe tăng đều tập trung tại cụm Bắc Ukraina. Điều này cho thấy Hitler chưa từ bỏ ý định chiếm lại Ukraina khi điều kiện cho phép.[101]

Theo các tài liệu của Phòng thông tin Liên Xô (Sovinform) thì số quân Đức và Romania tử trận trong giai đoạn từ ngày 4 đến ngày 31 tháng 3 năm 1944 là 183.310 người, số quân Đức bị bắt là 24.950 người; ngoài ra Quân đội Đức Quốc xã còn thiệt hại 2.187 xe thiết giáp các loại và 53.987 ôtô.[102] Dù không được coi là thành công mỹ mãn nhưng chiến dịch bao vây Kamenets - Podolsky cũng được coi là một chiến dịch có hiệu quả cao của Quân đội Liên Xô. Mặc dù thoát vây nhưng chỉ riêng Tập đoàn quân xe tăng 1 của tướng Hube cũng đã để mất gần 400 xe tăng, hơn 40 pháo tự hành và gần 300 khẩu pháo. 21 sư đoàn Đức đều không có sư đoàn nào thoát vây nguyên vẹn, hầu hết các sư đoàn đều mất đến hơn 50% quân số, riêng Sư đoàn cơ giới 20 và Sư đoàn bộ binh 371 bị xóa sổ.[103] Một số sư đoàn bộ binh chỉ còn lại bộ chỉ huy sư đoàn và các cơ quan tham mưu.[98]

Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani

Bản đồ mô tả sơ lược Chiến dịch Uman–Botoşani

Ngày 5 tháng 3, chỉ một ngày sau khi Chiến dịch tấn công Proskurov–Chernovtsy mở màn, Phương diện quân Ukraina 2 do đại tướng I. S. Konev cũng đồng loạt tấn công. Tham gia chiến dịch có các tập đoàn quân xe tăng 2, 6 và cận vệ 5. Trong đó, tập đoàn quân xe tăng 2 do trung tướng I. S. Bogdanov chỉ huy mới được điều động từ lực lượng dự bị chiến lược của Đại bản doanh Liên Xô. Các tập đoàn quân binh chủng hợp thành 27, 52, 53 và cận vệ 4 sau khi hoàn thành chiến dịch Korsun-Shevchenlovsky cũng có mặt trong đội hình tấn công. Đối đầu với họ là 19 sư đoàn Đức thuộc cánh Nam của Tập đoàn quân xe tăng 1, Tập đoàn quân 8 và cánh Bắc của Tập đoàn quân 6 (Đức). Trong đó có 4 sư đoàn xe tăng, 3 trung đoàn xe tăng độc lập, 1 sư đoàn cơ giới. Ngoài ra, còn có 3 sư đoàn thuộc các Tập đoàn quân Romania 3 và 4. Trên tuyến đầu, tướng Otto Wöhler bố trí các sư đoàn xe tăng 11, 14 và trung đoàn xe tăng độc lập 50 được lấy từ lực lượng dự bị chiến lược gồm toàn bộ là xe tăng hạng nặng. Tại mặt trận này, Quân đội Liên Xô có 630.000 quân, 8.800 pháo và súng cối, 670 xe tăng, 551 máy bay. Quân đội Đức quốc xã có khoảng 400.000 quân, 3.540 pháo và súng cối, 450 xe tăng, khoảng 500 máy bay.[104]

Sau một tuần tấn công, ngày 11 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 2 đánh chiếm Uman, đánh tan 2 sư đoàn xe tăng Đức tại đây.[105] Tập đoàn quân xe tăng 6 đánh chiếm đấu mối đường sắt Khristinovka, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 chiếm Ternovka và tiến nhanh về sông Nam Bug. Ngày 15 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 6 vượt sông Nam Bug ở Ladyzhin và đến ngày 20 tháng 3 đã có mặt ở vùng phụ cận Mogilev-Podolsk[106]. Trên cánh trái, các Tập đoàn quân cận vệ 5 và 7 sau khi vượt quân Novoukrainka và Pomoshnaya đã đánh chiếm Pervomaisk ngày 12 tháng 3. Quân Đức cố chống cự trên sông Nam Bug nhưng chỉ một tuần sau, các lực lượng tiền tiêu của hai tập đoàn quân này đã có mặt trước cửa ngõ Kotovsk.[72]

Ngày 16 tháng 3, các quân đoàn xe tăng 18 và 29 (Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5) vượt sông Nam Bug tại Gaivoron. Ngày 20 tháng 3, xe tăng của Quân đoàn 18 đã vào Kodyma, cắt đứt con đường sắt chiến lược chạy dọc biên giới Ukraina từ Chernovtsy đi Odesssa. Sau khi vượt qua tuyến đường sắt Chernovtsy - Odesssa, mũi tấn công của Tập đoàn quân xe tăng 2 cũng đã chạm đến sống Dniestr ở khu vực Yampol - Soroky[107]. Đòn đột kích này đã cắt đứt đường liên lạc của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) với phía Nam và thực chất là bổ đôi mặt trận của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức), chia cắt hai cánh quân Nam và Bắc của cụm quân này.[1] Nhận thấy các Tập đoàn quân xe tăng tiến quá nhanh và có nguy cơ bị hở sườn, tướng I. S. Konev lệnh cho Tập đoàn quân cận vệ 5 phải bứt lên phía trước, trong khi đó, Tập đoàn quân cận vệ 7 phải tiến chậm hơn để chờ các Tập đoàn quân cánh phải của Phương diện quân Ukraina 3 theo kịp, cố gắng khép chặt hai bên sườn của hai Phương diện quân.[96]

Nhưng quân đội Đức Quốc xã đã hoàn toàn không còn có thể nghĩ đến chuyện phản công ở Nam Ukraina trong khi đang bận cứu vãn cho số phận của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) tại cái túi Kamenets-Podolsky. Tướng Otto Wöhler đã bị lấy đi những sư đoàn xe tăng cuối cùng còn lại để ném lên phía Bắc. Do đó phòng tuyến sông Dniestr của Quân đội Đức Quốc xã cũng nhanh chóng tan vỡ.[10] Ngày 26 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 2 vượt qua Bălţi, đánh chiếm Botoshani và tiếp cận ngoại vi phía Bắc thành phố Yatsy (Iasi) (Romania). Cùng ngày, Tập đoàn quân 40 đã vượt biên giới, qua sông Prut ở Livkany (Lipcani), nhanh chóng cắt đứt con đường sắt Chernovtsy - Bucarest ở Suchava (Suceava). Tập đoàn quân 27 cũng đã tiến quân trên đất Romania và có cuộc chạm súng đầu tiên ở ngoài lãnh thổ Liên Xô tại Paskani trên sông Seret với các đơn vị tiền tiêu của Tập đoàn quân 4 Romania tại phía Nam.[96] Ngày 26 tháng 3 năm 1944. Moskva bắn pháo hoa cấp 1 chào mừng các tập đoàn quân của Phương diện quân Ukraina 2 là những đơn vị đầu tiên đã tiến ra khôi phục đường biên giới quốc gia Liên Xô năm 1941.[108]

Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye-Snigirevka

Binh sĩ Liên Xô kéo pháo bằng tay trong bùn lầy tại Chiến dịch Bereznegovatoye-Snigirevka

Ngày 6 tháng 3, Phương diện quân Ukraina 3 của R. Ya. Malinovsky bắt đầu mở màn chiến dịch Bereznegovatoye-Snigirevka,[1] trong khi Phương diện quân Ukraina 4 của F. I. Tolbukhin bắt đầu chuẩn bị cho Chiến dịch Krym.[109] Hai Phương diện quân này tiến chậm hơn trong khi Phương diện quân Ukraina 2 của I. S. Konev đã tiến đến bờ sông Dniestr nhằm cắt đứt đường lui của Tập đoàn quân xe tăng 1 về phía Tây Nam. Tập đoàn quân xe tăng 1, lúc này do Hans Hube chỉ huy, đã bị bao vây vào ngày 8 tháng 3.[1] Erich von Manstein vội bay về Tổng hành dinh của Hitler để xin hủy bỏ lệnh "tử thủ" đối với số quân bị bao vây.[100] Lần này Manstein đã thành công và ông nhận được Quân đoàn xe tăng 2 SS, đơn vị tăng viện đầu tiên được chuyển từ Mặt trận phía Tây sang Mặt trận Xô-Đức kể từ chỉ thị số 51 của Hitler, nhưng quân đoàn này lại được sử dụng để giải vây cho cụm quân Đức Kamenest Podolsky.[3] Ở phía Nam, Tập đoàn quân 6 (Đức) vẫn không nhận được một đơn vị xe tăng nào đáng kể.

Nhằm đẩy nhanh tốc độ tấn công, tướng R. Ya. Malinovsky đưa Quân đoàn xe tăng 23 và Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 từ lực lượng dự bị vào chiến đấu. Từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 3, tận dụng những ngày đẹp trời hiếm hoi, các tập đoàn quân không quân 8 và 17 đã ném bom phá hủy hầu hết các cây cầu trên sông Ingults. Quân đoàn xe tăng 23 mở đường cho Tập đoàn quân cận vệ 8 đột kích từ Shirokoye vòng xuống phía Nam, đánh vào phía sau lưng cánh quân Đức-Romania đang cố trụ lại trên bờ Tây sông Ingults. Cụm kỵ binh cơ giới của Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 đánh chiếm cứ điểm Novyi Bug, sau đó vòng xuống phía Nam, tiến dọc sông Ingults, tạo thành một vòng vây thứ hai.[87]

Ngày 18 tháng 3, các tướng Ernst-Eberhard Hell và Hans Kreysing cố gắng kéo quân chạy dọc theo bờ phải sông Dniepr về Nikolayev, Kherson và buộc phải bỏ lại tất cả xe tăng, xe cơ giới và pháo binh. Tuy nhiên, Tập đoàn quân xung kích 5 và Tập đoàn quân 28 (Liên Xô) đã đuổi theo sát gót quân Đức, đánh chiếm Kherson và tràn đến Nikolayev từ phía Nam, chặn đường rút ra biển của Tập đoàn quân 6 (Đức)[110].

Đến lượt 4 sư đoàn Đức và 4 sư đoàn Romania bị lọt vào vòng vây tại phía Tây Snigiryevka, trên hai bờ hạ lưu sông Ingults. Chỉ bằng cách chia nhỏ các đơn vị thành từng toán, một số trung đoàn của các quân đoàn bộ binh 7 và 17 (Đức) mới có thể thoát khỏi vòng vây của Quân đội Liên Xô còn đang bị hở ở nhiều đoạn và chạy thoát về Odessa. Đường đến Odessa đã mở rộng với các Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô). Sau chiến dịch này, Phương diện quân Ukraina 4 được lệnh tập trung binh lực phối hợp với Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải tấn công giải phóng Krym.[111]

Theo các tài liệu Liên Xô, từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 3 phát xít Đức mất 275 xe tăng, tử trận 36.800 người và bị bắt 13.859 người.[112] Nguyên soái A.M.Vasilevsky đưa ra con số khiêm tốn hơn: khoảng 25.000 lính Đức và Romania chết trận, 7.500 người khác bị bắt làm tù binh[110].

Chiến dịch tấn công Kovel

Cuối tháng 2 năm 1944, Đại bản doanh Quân đội Liên Xô quyết định chia Phương diện quân Byelorussia làm đôi. Đại tướng K. K. Rokossovaky chỉ huy Phương diện quân Byelorussia 1 tập trung vào hướng Mozyr - Gomel - Bobruysk. Phương diện quân Byelorussia 2 (thành lập lần thứ nhất ngày 24 tháng 2) do thượng tướng P. A. Kurochkin chỉ huy, tham mưu trưởng: trung tướng V. Ya. Kolpakchi, ủy viên hội đồng quân sự: trung tướng F. E. Bokov; gồm 3 tập đoàn quân cánh trái của Phương diện quân Byelorussia (47, 61, 70), được phối thuộc tập đoàn quân 69 (từ lực lượng dự bị), Tập đoàn quân không quân 6 (tách ra từ Tập đoàn quân không quân 16) và Giang đội Dniepr. Phương diện quân có nhiệm vụ tấn công dọc theo bờ phía Nam đầm lầy Polesia nhằm hướng Kovel - Brest - Lyublin, tiếp cận biên giới Liên Xô-Ba Lan (1940), yểm hộ sườn phải của Phương diện quân Ukraina 1 khi đó đang xúc tiến chuẩn bị chiến dịch tấn công Proskurov–Chernovtsy. Ngày 4 tháng 3, các nhiệm vụ trên được chính thức trao cho Bộ tư lệnh phương diện quân bằng Chỉ lệnh số 4480014 của Đại bản doanh.[113]

Phương diện quân chỉ có nửa đầu tháng 3 để chuẩn bị chiến dịch. Các mệnh lệnh, chỉ thị được phổ biến từ Bộ tư lệnh Phương diện quân đến các Tập đoàn quân còn có đến 10-12 ngày để chuẩn bị, nhưng khi xuống đến các sư đoàn thì họ chỉ còn từ 3-5 ngày để sửa soạn mọi thứ. Việc chuẩn bị chiến dịch rất gấp gáp cùng với thời tiết mùa xuân lầy lội ở khu vực cũng vốn là đầm lầy đã làm cho tướng V. Ya. Kolpakchi không tập hợp đủ binh lực. Trong tổng số 25 sư đoàn được biên chế cho Phương diện quân chỉ có 13 sư đoàn có mặt tại tuyến tấn công trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Các đơn vị khác, đặc biệt là kỹ thuật hậu cần còn tụt lại sau tại Korosten, Ovruch, Olevsk.[114]

Ngày 15 tháng 3, từ Sedlisye (Sedlishche) và Toboly, Tập đoàn quân 70 của trung tướng I. F. Nikolayev nhanh chóng vượt qua sông Stokhod tấn công Kemen-Kashirsky, Ngày hôm sau, Tập đoàn quân 61 của trung tướng P. A. Belov với sự hỗ trợ của Giang đội Dniepr tiến dọc theo phía Nam đầm lầy Polesia, rải quân từ Stolin đến Lyubeshov để che chắn bên sườn cho Tập đoàn quân 70, ngăn chặn các cụm quân Hale và Agrikol của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đột kích từ phía Bắc. Ngày 17 tháng 3, từ Borovno và Stobykhva, Quân đoàn bộ binh NKVD được tăng cường lữ đoàn cơ giới 672 (được tổ chức từ học viên trường cơ giới 672 của NKVD) tấn công về phía Bắc Kovel. Tập đoàn quân 47 của tướng V. S. Polenov cũng vượt sông Stokhod ở Navuz (???), hướng đòn tấn công về Turopin và Turisk, phía Nam Kovel.

Ngày 20 tháng 3, Tập đoàn quân 70 tiến quân sâu đến 40 km, đánh chiếm Kemen-Kashirsky và hai ngày sau đã tiến thêm 20 km nữa vượt sông Turya và có mặt trên bờ phải sông Pripyat và dừng lại trước thị trấn Radno (Ratne) bên kia sông. Ở phía Nam, Tập đoàn quân 47 cũng tiến sâu đến 60 km, đánh chiếm các nhà ga Turopin và Turisk, cắt đứt đường sắt Kovel - Lvov và bắt đầu dồn quân Đức về Kovel. Ngày 21 tháng 3, Quân đoàn NKVD và Lữ đoàn cơ giới 672 đã đột phá qua Bolshaya Obzyr (Velykyi Obzyr) và có mặt ở ngoại vi phía Đông Kovel. Tập đoàn quân không quân 6 đã huy động tất cả các máy bay Yak-9, IL-2, Pe-2 và cả máy bay cổ Po-2 yểm hộ cuộc tấn công trên mặt đất. Ngày 25 tháng 3, cụm quân Đức tại Kovel bị bao vây từ ba phía.[114]

Thấy được tình hình nguy ngập tại Kovel có thể đe dọa phá vỡ cánh trái của Tập đoàn quân xe tăng 4, tướng Walter Weiß, tư lệnh Tập đoàn quân 2 (Đức) lập tức có phản ứng. Sư đoàn xe tăng SS "Wiking" và Sư đoàn cơ giới 7 do tướng Erhard Raus "cho mượn" được rút khỏi Radekhov, Brody và được điều lên phía Tây Kovel. Sư đoàn cảnh binh SS 213 và sư đoàn bộ binh 131 được tăng cường cụm quân Bille SS tổ chức phòng ngự vòng tròn quanh Kovel. Cụm quân Hauffe được tăng cường Sư đoàn xe tăng 8 từ Vladimir Volynsky đột kích lên phái Bắc, đánh vào mỏm đất nhô về phía Tây Turopin - Turisk, vào sau lưng Tập đoàn quân 47. Ở phía Bắc Kovel, Sư đoàn bộ binh 211 (Đức) và Sư đoàn bộ binh 19 (Hungary) được lệnh phản kích, ép Tập đoàn quân 70 ngược trở lại sông Turya. Các trung đoàn pháo binh 190, 270, 904, các trung đoàn pháo tự hành 1005 và 1007 (Đức) cũng được điều đến khu vực Kovel để yểm hộ cho cuộc phản công.[115]

Từ ngày 28 tháng 3, bộ binh và xe tăng Đức mở nhiều đợt tập kích mạnh vào Tập đoàn quân 47 (Liên Xô). Dựa vào chướng ngại thiên nhiên là khúc cong của sông Turya tại Turopin và Turisk, Tập đoàn quân 47 đã trụ lại được. Ngày 1 tháng 4, Tập đoàn quân 70 được tăng cường Quân đoàn bộ binh cận vệ 9 vẫn duy trì vòng vây quanh phía Bắc và phía Đông Kovel. Ngày 4 tháng 4, Quân đoàn bộ binh cận vệ 9 tiếp tục áp sát Kovel, cắt đứt tuyến đường sắt Brest - Kovel ở phía Bắc thành phố. Các nỗ lực đột phá của Sư đoàn xe tăng SS "Wiking" và Sư đoàn xe tăng 7 (Đức) cũng chỉ đủ để ngăn chặn các tập đoàn quân Liên Xô khép vòng vây ở phía Tây Kovel. Ngày 5 tháng 4, Quân đội Liên Xô ngừng công kích; quân Đức cũng kiệt sức, không thể tiếp tục phản công. Kovel vẫn bị các đơn vị Liên Xô bao vây từ ba phía và chỉ có thể liên lạc với bên ngoài bằng các tuyến đường sắt và đường bộ đi Kholm ở phía Tây.[113]

Sau chiến dịch, Phương diện quân Byelorussia 2 (lần 1) bị giải thể. Các đơn vị của nó được chuyển giao cho Phương diện quân Byelorussia 1. 20 ngày sau, Phương diện quân này lại được tái lập và được bố trí ở giữa các Phương diện quân Byelorussia 1 và 3 tại Krychev, phía Đông Mogilev.

Chiến dịch tấn công Odessa

Ngày 19 tháng 3, Nguyên soái A. M. Vasilevsky và đại tướng R. Ya. Malinovsky gửi kế hoạch tấn công Odessa về Đại bản doanh kèm theo đề nghị bổ sung xe tăng, xe kéo pháo và máy bay tiêm kích. Đại bản doanh Liên Xô đồng ý tăng cường cho Quân đoàn xe tăng 23 một cụm mô tô cơ giới, có thể hoạt động tốt trên các địa hình lầy lội. 300 xe tăng cũng được điều động bổ sung cho Quân đoàn xe tăng 23, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng Plyev, Tập đoàn quân xung kích 5 và Tập đoàn quân cận vệ 8. Tuy nhiên, những phương tiện đó không thể đến ngay cùng một lúc do các đường giao thông bị lầy lội nghiêm trọng. Chỉ một tuần sau, Phương diện quân Ukraina 3 mới tập trung đủ lực lượng để tấn công.

Mở đầu chiến dịch giải phóng Odessa chưa phải là các hoạt động trên bộ mà là trận đột kích của Hải quân đánh bộ Liên Xô. Phối hợp với Phương diện quân Ukraina 3 theo kế hoạch cũ, đêm 26 tháng 3, Hạm đội Biển Đen đã điều động tiểu đoàn hải quân đánh bộ 384, sử dụng 7 tàu vận tải nhẹ (loại pha sông biển) do ngư dân A. N. Andreyev cùng 54 người tình nguyện khác điều khiển mở cuộc đổ bộ vào Odessa. Xuất phát từ Nikolayev, họ đột nhập vào vịnh Odessa (phía Bắc thành phố) và đổ bộ lên bờ vịnh. Tưởng rằng chủ lực quân đội Liên Xô tấn công từ phía biển, tướng Ernst-Eberhard Hell điều đến khu vực chiến sự một sư đoàn bộ binh. Ngày 27 và 28 tháng 3, đã diễn ra trận đánh khốc liệt giữa sư đoàn bộ binh 153 (Đức) và tiểu đoàn hải quân đánh bộ 55 (Liên Xô). Tiểu đoàn cố trụ lại chờ chủ lực của Tập đoàn quân 28 kéo đến nhưng đến đêm 28 tháng 3, trong tay họ không còn đạn dược dự trữ, quân số vơi dần chỉ còn non một đại đội. 55 ngư dân tình nguyện cũng lần lượt ngã xuống. Những người còn lại sử dụng những chiếc xuồng chưa bị đánh chìm rút ra biển và thoát về Nikolayev.[116]

Ngày 25 tháng 3, các tập đoàn quân Liên Xô bắt đầu trinh sát chiến đấu và thiết lập các đầu cầu vượt sông Nam Bug.[105] Ngày 26 tháng 3, từ Konstantinovka và Voznesensk, Quân đoàn xe tăng 23 và Cụm kị binh cơ giới Plyev vượt sông, mở đường cho Tập đoàn quân 57 và tập đoàn quân 37 đột phá sang phía Tây. Từ Novaya (???), Tập đoàn quân cận vệ 8 và Tập đoàn quân 46 vượt sông Nam Bug đánh chiếm nhà ga Berezovka, cắt đứt đường sắt Odessa - Pervomaisk và đổi hướng về phía Nam, dồn quân Đức vào khu đầm lầy giữa cửa sông Dniestr và các vịnh lầy phía Đông Odessa. Từ phía Đông Nikolayev, các tập đoàn quân 6 và xung kích 5 tấn công Nikolayev và thực hiện các đòn đánh chia cắt qua các vịnh lầy, Tập đoàn quân 28 đánh chiếm Ochakov, tiến dọc bờ biển về Odessa. Ngày 27 tháng 3, Tập đoàn quân xung kích 5 chiếm Nikolayev.

Ngày 28 tháng 3, Quân đoàn xe tăng 23 và cụm kỵ binh cơ giới đã tiến xa sang phía Tây, tiếp cận sông Dniestr và bắt đầu vòng xuống phía Nam, cắt đứt tuyến đường sắt Odessa - Kishinev ở Rozdilna. Ngày 31 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 44 (Đức) mở cuộc phản kích vào Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 (Liên Xô) ở thung lũng Kutsugan, gây thiệt hại nặng cho quân đoàn này, giết chết tướng T. I. Tanastsisin, tư lệnh quân đoàn.[117] Ngày 2 tháng 4, Tập đoàn quân cận vệ số 8 của Vasili Chuikov và Tập đoàn quân số 46 mở đợt tấn công trong trận bão tuyết[100]. Đến ngày 6 tháng 4, Quân đội Liên Xô đã đẩy quân Đức lùi xa sông Dniestr về phía Tây và cô lập Odessa[100]. Dù cố gắng đột phá vào Kutsugan nhưng quân Đức cũng không đến được biên giới Romania trên hướng này. Ngày 8 tháng 4, Quân đoàn xe tăng 23 đánh chiếm Tiraspol chặn đứng con đường rút lui cuối cùng của quân Đức ở Odessa bằng đường sắt. Cụm kỵ binh cơ giới Plyev cũng đánh chiếm thị trấn Belayevka gần cửa sông Dniestr. Ngày 9 tháng 4, những đơn vị quân Đức và Romania còn lại ở Odessa bắt đầu kéo xuống tàu vận tải chạy trốn sang Romania. Những chiếc phà qua vịnh Ovidyopol sang Akkeman (Romania) chật cứng quân Đức, Romania và các loại xe con, xe ngựa.[87] Cùng ngày, Tập đoàn quân xung kích 5 (Liên Xô) đột nhập và Odessa. Ngày 10 tháng 4, Odessa hoàn toàn nằm trong tay Quân đội Liên Xô.[118] Số quân Đức còn tại Odessa hạ vũ khí đầu hàng.[100] Ngày 14 tháng 4, các tập đoàn quân 28, 37, 46, 57 và Tập đoàn quân xung kích 5 đã có mặt trận tả ngạn sông Dniestr từ Tiraspol đến Ovidyopol, đối diện với Tập đoàn quân 3 Romania bên kia sông. Tập đoàn quân cận vệ được rút khỏi biên chế Phương diện quân Ukraina 3 và điều về Phương diện quân Byelorussia 1.[87]

Theo các tài liệu Liên Xô thì tính từ ngày 25 tháng 3 đến 12 tháng 4 quân phát xít Đức và Romania đã tử trận 26.800 người, quân Đức bị bắt 10.680 người và mất 443 xe tăng.[119]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_tấn_công_hữu_ngạn_Dniepr http://books.google.com/books?id=33g3ujB6mAoC&dq=r... http://books.google.com/books?id=6UaU6ZLqK4UC&dq=R... http://books.google.com/books?id=Biy-5FvnEUAC http://books.google.com/books?id=DX5rHgAACAAJ&dq=r... http://books.google.com/books?id=JBQOAAAACAAJ&dq=S... http://books.google.com/books?id=KSld2jCQpwkC http://books.google.com/books?id=O2zpAAAACAAJ&dq=W... http://books.google.com/books?id=QQgbAAAAIAAJ&q=ru... http://books.google.com/books?id=X49RqlegjboC&ei=h... http://books.google.com/books?id=_dAWAQAAIAAJ